Dẫn nhập
Toàn bộ đức tin mà Hội thánh Công giáo Rôma luôn không ngừng tuyên xưng và loan truyền cho thế giới qua mọi thời, trong mọi nơi, mọi lúc nằm trong Kinh Tin Kính. Vì thế, trước khi bước vào những gì mà chúng ta sẽ bàn luận nơi đây, thiết nghĩ nên gợi nhớ lại trong tâm trí những điều căn bản nhất, mà đời sống đức tin của một người Công giáo sẽ phải gắn bó cho tới ngày được diện kiến Đấng là khởi đầu và là nguồn cội của chúng ta. Lặp lại những điều trong Kinh Tin kính lúc này đây phải chăng là dư thừa hay vô bổ, thậm chí lạc đề? Thế nhưng, nếu ý thức một cách đầy đủ và phóng tầm nhìn trong sự bao quát, thì không khó để nhận thấy trên mặt đất bằng này chẳng phải có riêng một mình Giáo hội Công giáo mà thôi, nhưng là biết bao tôn giáo và truyền thống tôn giáo khác vẫn đang song hành tồn tại và diện diện. Do đó, với tình trạng đa nguyên tôn giáo ấy, nếu chúng ta không khẳng quyết niềm tin của mình, thì có lẽ rất dễ rơi vào chủ trương thỏa hiệp chân lý hay chiết trung chủ nghĩa.
Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ! Trong khi Giáo hội Công giáo không ngừng cổ động việc đối thoại giữa các tôn giáo, đặc biệt tại Á Châu, là cái nôi của các tôn giáo lớn và hàng trăm truyền thống tôn giáo khác nhau. Thì không thiếu người đặt thắc mắc: đối thoại để làm gì? Phải chăng để chiêu dụ các tôn giáo khác vào Kitô giáo? Hay để tiến tới một tôn giáo hòa đồng, vượt lên trên ranh giới các tôn giáo lịch sử? Thật không dễ gì để trả lời cho những câu hỏi đó, và như vậy cuộc đối thoại xem ra đã bế tắc ngay trước khi khởi hành. Tuy nhiên, nếu chúng ta không coi các tôn giáo như những pháo đài kiên cố, nhưng như là những đoàn người đang lên đường tìm đến hạnh phúc vĩnh cửu, thì vấn đề có thể xoay ngược chiều. Thật vậy, các tôn giáo kể các Kitô giáo, xét về mặt triết học, đều như là những thực tại liên quan đến sự cứu độ con người.
Thực tế đã cho thấy, con số các tín đồ thuộc các tôn giáo và truyền thống khác chiếm phần đông hơn so với Kitô giáo nói chung và Công giáo nói riêng. Dẫu vẫn biết rằng chỉ có một tôn giáo đích thực, một Hội thánh duy nhất, chân thật do Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, và là người thật thiết lập; thế nhưng việc ý thức hoàn cảnh thiểu số của mình xét về mặt thời gian cũng như về số lượng, thì sự cần thiết của chức năng cứu độ phổ quát càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Công đồng Vaticano II ra đời như là hoa trái được đơm kết từ các suy tư thần học của Giáo hội trong suốt hai ngàn năm. Đồng thời, Công đồng cũng mở đường cho các suy tư thần học về tôn giáo tiếp tục phát triển. Nhờ Công đồng, mối tương quan cũng như cách nhìn nhận về các tôn giáo ngoài Kitô giáo đã có những biến chuyển. Cách cụ thể qua các văn kiện của và sau Công đồng: Hiến chế Lumen Gentium (LG), tuyên ngôn Nostra Aetate (NA), sắc lệnh Ad Gentes (AG), hay tông huấn Evangelii Nuntiandi (EN), thông điệp Redemptoris Missio (RM), cũng như tuyên ngôn Dominus Iesus (DI) và các văn kiện khác nữa.
Những gì trình bày nơi đây chỉ xin như một nét chấm phá lướt nhẹ qua các văn kiện của Giáo Hội từ Công đồng Vaticano II trở đi, để nhận định về những biến chuyển trong cách nhìn nhận của Giáo hội về giá trị cứu độ của các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Chứ hoàn toàn không có tham vọng giải đáp kỳ cùng cho những thắc mắc vô tận của những người muốn đào sâu nghiên cứu, hay như muốn tò mò hiếu kỳ trong lãnh vực các tôn giáo.
1. Triết học: nơi gặp gỡ chung của các tôn giáo
Trong tiếng Việt, tôn giáo được gọi là đạo. Đạo là con đường. Thật thế, ngay từ lúc chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, con người luôn không ngừng băn khoăn, khắc khoải và loay hoay tìm ra câu trả lời cuối cùng, là chân lý cho cuộc đời hiện sinh của mình. Tôn giáo làm thỏa mãn những khát vọng ấy của con người: “con người mong đợi tôn giáo đưa ra lời giải đáp về những bí nhiệm tiềm ẩn trong thân phận con người, những điều xưa nay vẫn làm thâm tâm họ ưu tư trăn trở: Con người là chi? Cuộc sống chúng ta mang ý nghĩa và mục đích gì? Thế nào là thiện hảo và tội lỗi? Đau khổ có nguyên nhân và mục đích nào? Đâu là con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực? Phải hiểu thế nào về cái chết, sự phán xét và thưởng phạt sau khi chết? Sau cùng, đâu là huyền nhiệm tối hậu và khôn tả bao trùm cả cuộc hiện hữu của con người, nơi chúng ta xuất phát và cũng là điểm chúng ta phải hướng về? ” (NA, 1). Dường như đích đến của tất cả những vấn nạn trên chúng ta gặp thấy nơi định nghĩa cổ điển về ơn cứu độ: gaudium de veritate (niềm vui sinh ra từ chân lý). Hiểu như thế, ơn cứu độ sẽ là gì nếu không phải là niềm vui, hạnh phúc và sự giải thoát trong chân lý đích thực được chứa đựng trong các tôn giáo. Vì thế để nhìn nhận một tôn giáo có ơn cứu độ hay không, thì phải xét đến tôn giáo ấy có phải là trung gian của ơn cứu độ cho các tín đồ của mình hay không?
2. Giá trị ơn cứu độ của các tôn giáo khác
Thần học Kitô giáo khẳng định: duy chỉ mình Thiên Chúa mới cứu độ con người. Do đó, “con đường” hay “những con đường”, nếu có, là do Thiên Chúa hoạch định chứ không phải hoàn toàn do sáng kiến hay khả năng của con người. Đồng thời, như đã trình bày trên đây, Giáo hội ngày càng ý thức hơn về bản thân mình để có một cái nhìn cởi mở hơn về các tôn giáo, mà cụ thể là giá trị cứu độ nơi các tôn giáo khác. Như thế, vấn đề đặt ra cho chúng ta là: Các tôn giáo khác có mang lại ơn cứu độ cho tín đồ của mình không?
Điều trước tiên có thể nhận thấy chính là việc Công đồng đề cập đến các con đường tôn giáo khác như là những nỗ lực, qua đó con người đi tìm Thiên Chúa, dò dẫm kiếm tìm Người may ra gặp được Người, và như là những “sáng kiến” nhân loại “cần được soi sáng và thanh lọc” bởi Tin Mừng. Dù vậy, những lối bước của các tôn giáo khác không phải là xấu hoàn toàn, và “cũng có thể được coi như những lối đường hướng về Thiên Chúa chân thật hoặc chuẩn bị cho Tin Mừng” (AG, 3). Như thế, việc tìm kiếm lần mò về Thiên Chúa đáp ứng ý định của Đấng quan phòng và dường như sự tìm kiếm cũng hàm chứa những khía cạnh tích cực. Phải chăng đã có một tương quan với Thiên Chúa ngay cả trước khi gia nhập đạo?
Trong đường hướng ấy, Công đồng mở rộng ra thêm nữa khi cho rằng ơn thánh hiện diện khắp nơi. Điều này ăn khớp với Gaudium et Spes số 22, dạy “qua việc nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa liên kết chính mình với mỗi con người”. Đồng thời, sau khi nhận định rằng người Kitô hữu là người được tháp nhập vào trong mầu nhiệm Phục Sinh, và như thế được thông phần vào mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, văn kiện giải thích thêm: “điều nói trên không chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng còn cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh tác động một cách vô hình trong tâm hồn”. Trong Ad Gentes số 3 cũng gặp thấy một đoạn khác củng cố cho quan điểm này: “Ý định của Thiên Chúa muốn cứu rỗi toàn thể nhân loại không chỉ được thực hiện một cách thầm kín trong tâm trí con người...”
Như vậy, theo Vaticano II, ơn cứu độ của Thiên Chúa không những bao hàm tất cả những ai nhận biết Đấng tạo hóa, mà còn nới rộng tới “những ai vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa một cách rõ rệt, nhưng tìm kiếm Ngài với tâm hồn chân thành và được sự hỗ trợ của ân thánh Chúa, cố gắng sống một cách chính trực theo sự hướng dẫn của lương tâm ”
Tiến thêm một bước nữa, Công đồng cũng nhìn nhận những giá trị tích cực trong các truyền thống tôn giáo ngoài Kitô giáo. Lumen Gentium viết: “Thật vậy, Giáo hội xem tất cả những gì là chân thiện nơi họ (những tín hữu thuộc các truyền thống tôn giáo khác) như để chuẩn bị cho họ lãnh nhận Tin Mừng, như một ân huệ mà Đấng soi sáng mọi người ban cho hầu cuối cùng họ được sống” (LG, 16).
Sắc lệnh Ad Gentes cũng nói đến sự kết hợp giữa thái độ đón nhận của các tín đồ và những giá trị khách quan của các tôn giáo. Từ đó làm bật lên những “sáng kiến tôn giáo” dường như cũng có tương quan với những yếu tố tích cực trong các tôn giáo: “ý định của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi toàn thể nhân loại không phải chỉ được thực hiện một cách có thể nói là kín đáo trong tâm trí con người, nhưng còn bằng những sáng kiến, ngay cả sáng kiến tôn giáo, nhờ đó, con người tìm kiếm Thiên Chúa bằng nhiều cách hầu may ra sẽ đến gần Ngài hoặc gặp được Ngài, mặc dù Ngài không ở xa mỗi người chúng ta” (NA, 3). Nơi đây các sáng kiến giúp định hình đời sống tôn giáo của họ.
Văn kiện trực tiếp và có giá trị nhất trong vấn đề chúng ta đang bàn đây chắc hẳn là Nostra Aetate. Tuyên ngôn này đề cập tới sự gặp gỡ giữa Giáo hội và các tôn giáo trên thế giới, khi cố gắng suy tư về nguồn gốc và cứu cánh chung của mỗi người trong Thiên Chúa. Thái độ của Giáo hội với các tôn giáo được diễn tả như sau:
“Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng và chân thành, Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên Giáo hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Đấng là ‘đường, sự thật và sự sống’, nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình” (NA, 2)
Theo một số nhận xét, thì những giá trị nơi các tôn giáo được văn kiện Nostra Aetate nhấn mạnh hơn so với các văn kiện khác. Nơi các tôn giáo khác có sự hiện diện, dù chưa toàn diện, nhưng một cách cụ thể của “chân lý” trong các tôn giáo. Đây là lý do thúc đẩy Giáo hội kính trọng các tôn giáo khác và thăng tiến các giá trị tinh thần và văn hóa nơi các tôn giáo này. Đồng thời ý thức sứ mạng của chính mình, là Giáo hội có vai trò loan báo “sự trọn hảo của đời sống tôn giáo” trong Đức Kitô.
Cũng có nhận định khác cho rằng giáo huấn của Công đồng sử dụng nhiều thuật ngữ của các truyền thống xưa, nhưng thiếu định nghĩa cụ thể. Vì thế, một tài liệu khác của Văn phòng Đối thoại với những người ngoài Kitô giáo được xuất bản năm 1984, tái khẳng định các giá trị tích cực của các truyền thống tôn giáo khi quy tụ các thuật ngữ mà Công đồng sử dụng. Bản văn viết:
Các nghị phụ của Công đồng đã khẳng định rằng, trong các truyền thống tôn giáo ngoài Kitô giáo có những yếu tố “chân thiện” (LG,16), những “yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá” (GS 92), những yếu tố “của chân lý và ân sủng” (AG, 9), “những hạt giống của Ngôi Lời” (AG, 11,15), những “tia sáng của chân lý chiếu soi hết thảy mọi người” (NA, 2).
Theo các khẳng định một cách rõ ràng nhất của Công đồng, tất cả những giá trị này quy tụ trong các truyền thống tôn giáo của nhân loại. Nó cần được các Kitô hữu chú ý và tôn trọng. Những kho tàng thiêng liêng này mời gọi các Kitô hữu tham gia đối thoại một cách thiết thực, không chỉ trên những điểm tương đồng, mà còn với cả những điểm dị biệt nữa.
Như thế, giá trị cứu độ tích cực không chỉ nằm trong các cá nhân nhưng sâu rộng hơn, theo như chúng ta vừa trình bày, là nhìn nhận các giá trị tích cực nơi các truyền thống tôn giáo và văn hóa của họ. Chính Tuyên ngôn Dominus Iesus khi trưng Redemptoris Missio số 55, đã nhìn nhận rằng: “Thiên Chúa không ngừng hiện diện bằng nhiều cách, không những với các cá nhân mà thôi, nhưng còn với trọn cả những tập thể dân tộc qua kho tàng thiêng liêng phong phú của họ, được biểu đạt chính yếu và chủ chốt nơi các tôn giáo của họ...”
Chúng ta có thể nhận thấy một bươc nhảy hữu lý được thành toàn nơi Nostra Aetate: Vaticano II đã từ sự tôn trọng đối với các“hạt mầm của Ngôi Lời” có thể tìm thấy trong các tôn giáo không phải Kitô giáo, chuyển sang một sự kính trọng toàn bộ đối với các tôn giáo này xét từ chính bản chất của chúng.
Như vậy, khởi đi từ sự hiện diễn khả dĩ của các “hạt mầm của Ngôi Lời” trong các tôn giáo để đi đến việc xác quyết rằng với tư cách riêng của mình chúng có thể thực thi một tác năng cứu độ. Đó là bước vượt qua từ cái cá biệt đến phổ quát, tạo nên cuộc cách mạng Corpecnic của Vaticano II.
3. Thánh Thần muốn thổi đâu thì thổi
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã có những đóng góp quan trọng trong việc nhìn nhận những giá trị tích cực nơi các tôn giáo khác, qua việc nói đến vai trò của Thánh Linh. Trong thông điệp Redemptoris Missio, ngài đã tự vấn: “Phải chăng một vài lần niềm tin kiên cường của tín đồ các tôn giáo khác – mà thực sự niềm tin này cũng xuất phát từ Thánh Thần chân lý, Đấng tác động ngay cả bên ngoài ranh giới hữu hình của Nhiệm Tích – làm cho người Kitô hữu phải hổ thẹn bởi vì thường xuyên nghi ngờ chân lý do Thiên Chúa mặc khải và được Giáo hội loan truyền” (số 29).
Thông điệp còn xác quyết rõ rệt hơn: “Thần Khí biểu lộ một cách đặc biệt trong Giáo hội và trong các thành phần của Giáo hội, nhưng sự hiện diện và tác động của Ngài thì phổ quát, không hề bị giới hạn bởi thời gian và không gian (...) Thần Khí là (...) căn nguyên của nỗi khắc khoải hiện sinh và tôn giáo của con người, nỗi khắc khoải phát xuất không từ những điều kiện bất tất mà chính từ cơ cấu hữu thể nhân loại. Sự hiện hữu không phải chỉ liên quan tới các cá nhân, mà còn liên quan đến xã hội, lịch sử, các dân tộc, các văn hóa và các tôn giáo ” (số 28).
Như vậy, khi chấp nhận sự hiện diện tích của của Thần Khí Thiên Chúa nơi các truyền thống tôn giáo khác, phải chăng chúng ta cũng có thể gián tiếp chấp nhận ơn cứu độ của các tôn giáo này?
Cần phải khẳng định lại một lần nữa là: không bao giờ có thể quan niệm có những “trung gian cứu độ” nào khác tách rời khỏi con người Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất. Và Thánh Thần đưa đến với Đức Giêsu Kitô. Vì thế, có những con đường bí nhiệm của Thánh Linh, ban cho tất cả mọi người khả năng kết hợp với mầu nhiệm Phục Sinh (GS, 22) và tác động của Thánh Linh cũng không thể không tương quan với Đức Kitô.
4. Nhận định và Tạm kết
Với tất cả những gì trình bày trên đây, chắc hẳn không khó để chúng ta có thể nhận ra những bước tiến của Giáo hội trong việc nhìn nhận, đánh giá cũng như những nỗ lực cởi mở hầu tạo tiền đề cho công cuộc đối thoại của Giáo hội trong thế giới đa nguyên tôn giáo ngày nay. Có nhiều lập trường cả tích cực lẫn tiêu cực về quan điểm của Giáo hội đối với các tôn giáo khác. Tuy nhiên, cách riêng, xin được đưa ra một vài nhận định sau:
- Qua từng bước phát triển tuy chậm của Giáo hội trong tương quan, cũng như cách nhìn nhận và giá trị cứu độ của các tôn giáo ngoài Kitô giáo, có thể nhận thấy cuộc tranh luận về thực trạng đa nguyên tôn giáo cũng như câu hỏi: Có ơn cứu độ trong các tôn giáo khác hay không? Đã dần chuyển di sang việc tìm hiểu về cách thức các tín đồ thuộc các tôn giáo ấy được cứu độ như thế nào, và về vai trò của Đức Kitô, Thần Khí và Giáo hội đóng giữ trong ơn cứu độ ấy. Dẫu cho ngay cả trong chính các văn kiện của Công đồng lẫn sau đó vẫn chưa rõ ràng, hay nói đúng hơn là cẩn trọng và dè dặt, không có những khẳng định dứt khoát, đang bỏ ngõ cũng như mời gọi suy tư thêm. Chính vì thế, Dominus Iesus đã đưa ra một nghị trình làm việc cho các thần học gia: “trong nỗ lực suy tư về kinh nghiệm của các tôn giáo khác và về ý nghĩa của chúng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thần học ngày nay được mời gọi tìm xem các nhân vật lịch sử và những yếu tố giá trị trong các tôn giáo ấy có nằm hay không và bằng cách nào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa” (số 14).
- Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không thể phủ nhận hay loại bỏ giá trị cứu độ của các tôn giáo, nhưng điều này cũng không đồng nghĩa với việc tất cả mọi điều trong các tôn giáo đều có tính cách cứu độ. Nói cách khác, các tôn giáo có những yếu tố của sự hiểu biết chân thật về Thiên Chúa, dẫu chúng còn bất toàn - tri thức luận. Tuy nhiên cũng không bảo đảm hiểu và giải thích đúng nếu không ở trong Đức Kitô. Điều này giúp chúng ta trở về với chính mình: những vấn nạn đặt ra tất nhiên vẫn cần được giải đáp: Đức Kitô cứu độ các anh chị em theo những con đường tôn giáo khác bằng cách nào? Ở giữa các dân nước, Giáo hội đang giữ vai trò nào trong công trình cứu độ của Đức Kitô? Chính những tra vấn ấy là cơ hội tốt để tiến hành việc nghiên cứu thần học Kitô giáo trong một cách thức mới, qua việc tầm cứu kỹ lưỡng giáo huấn của các truyền thống tôn giáo khác. Từ đó tìm ra được những nhận thức mới mẻ và thích đáng hơn về truyền thống đức tin của chính mình, qua việc đáp ứng thỏa đáng và sâu sắc đối với giáo huấn của các truyền thống tôn giáo khác. Đôi lúc, nỗ lực nhận thức ấy sẽ vén mở cho thấy những điểm tương đồng sâu sắc, khi khác thì những dị biệt thực sự về mặt thần học sẽ hiện lên.
Xin mượn lời của Hội đồng Giám mục Ấn Độ để kết thúc bài viết này:
“Đa phức tôn giáo là hậu quả phong phú của sáng tạo và ân sủng vô tận của Thiên Chúa. Mặc dù phát xuất từ cùng một nguồn, các dân tộc đã nhận thức về vũ trụ và biểu lộ ý thức về mầu nhiệm bằng nhiều cách thế khác nhau và chắc chắn Thiên Chúa đã hiện diện trong công trình lịch sử này của các con cái Ngài. Xem như thế, thay vì ân hận vì hiện tượng đa phức tôn giáo, đúng hơn chúng ta phải coi đây như một ân huệ của Thiên Chúa ”.